Bệnh võng mạc đái tháo đường là một biến chứng mắt của bệnh đái tháo đường, đây là một tình trạng bệnh nặng trong nhãn khoa và là nguyên nhân gây mù đứng thứ 2 trong các nguyên nhân gây mù có thể phòng tránh được. Nguyên nhân chính của bệnh do suy giảm insulin điều tiết lượng đường máu trong cơ thể gây nên nồng độ đường cao trong máu và suy giảm các cơ quan chứa mạch máu nhỏ như thận, mắt( võng mạc)… và có thể xếp chung trong nhóm bệnh biến chứng vi mạch do đái tháo đường.
Không phải người bệnh đái tháo đường nào cũng gặp biến chứng tại mắt, theo ước tính con số này là 1/3 số người bệnh ( khoảng 285 triệu). Theo Trung tâm kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ, khoảng 90% biến chứng mắt do bệnh đái tháo đường có thể phòng tránh được nếu được phát hiện sớm và theo dõi tốt.
Bài viết này sẽ giúp người bệnh đái tháo đường có biến chứng mắt trang bị đủ kiến thức giúp chẩn đoán, theo dõi và phòng ngừa trong quá trình điều trị.
Bệnh võng mạc đái tháo đường là một tình trạng đặc trưng bởi sự tổn thương các mạch máu trong võng mạc ( rò mạch, phù hoặc tắc mạch) do nguyên nhân lượng đường trong máu cao không được kiểm soát. Giai đoạn nặng, võng mạc xuất hiện các mạch máu mới bất thường và gây ra các biến chứng nặng như xuất huyết, tăng nhãn áp, mất thị lực…

2 loại bệnh võng mạc đái tháo đường
Bệnh võng mạc đái tháo đường không tăng sinh (mức độ nhẹ)
Đây là giai đoạn sớm của bệnh, khi hoàng điểm hoặc vùng võng mạc trung tâm bắt đầu bị tổn thương.
Các biểu hiện thường gặp gồm:
Phù hoàng điểm: là nguyên nhân chủ yếu gây giảm thị lực.
Thiếu máu hoàng điểm: các mạch máu co nhỏ, làm giảm lượng máu nuôi hoàng điểm.
Triệu chứng có thể gặp:
Bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh
Đây là giai đoạn tiến triển của bệnh, khi xuất hiện các mạch máu bất thường (tân mạch).
Các tân mạch này có thể:
Triệu chứng thường gặp:
Nhìn mờ.
Thị lực thay đổi trong ngày (mờ – rõ xen kẽ).
Nhìn kém buổi tối.
Nhìn thấy ruồi bay tăng dần.
Xuất hiện các điểm đen trong thị trường.

Chẩn đoán bệnh võng mạc đái tháo đường như thế nào?
Người bệnh đái tháo đường cần được khám mắt thường xuyên, từ 1 đến 2 lần trong năm. Việc thăm khám được thực hiện bởi bác sỹ nhãn khoa hoặc chuyên gia về dịch kính võng mạc. Quá trình thăm khám bao gồm:
Khám đáy mắt có tra giãn đồng tử : người bệnh sẽ được tra thuốc giãn đồng tử để bác sĩ có thể kiểm tra toàn bộ võng mạc và có thể chụp ảnh lưu giữ các tổn thương sau:
- Các phát triển bất thường của mạch máu
- Bất thường ở đầu dây thần kinh thị giác
- Phù hoặc xuất huyết võng
- Xuất huyết dịch kính
- Các tổn thương sẹo hóa
- Bong võng mạc
- Kiểm tra nhãn áp
- Đục thủy tinh thể
Khi tran giãn đồng tử, mắt sẽ nhìn mờ trong khoảng 3-4 tiếng
Chụp mạch ký huỳnh quang: thuốc nhuộm huỳnh quang (fluorescein) được tiêm qua tĩnh mạch tay lưu thông lên hệ mạch võng mạc, tại đây máy chụp sẽ phát ánh sáng tương ứng để “chiếu sáng” hệ mạch máu và chụp ảnh lại, các tổn thương mạch máu như tắc mạch, rò rỉ hoặc phù hoàng điểm sẽ được phát hiện.
- Chụp cắt lớp võng mạc ( chụp OCT) – Đây là một khám nghiệm không xâm lấn, sử dụng ánh sáng đi xuyên qua các lớp võng mạc. Hình ảnh cắt lớp hoặc 3D của võng mạc cho phép phát hiện các dấu hiệu sớm của rất nhiều bệnh lý đáy mắt, đặc biệt là bệnh VMDTD. Việc phát hiện sớm giúp điều trị sớm và hiệu quả. Chụp OCT không xâm lấn, do đó có thể thực hiện nhiều lần trong quá trình thăm khám, theo dõi và đánh giá hiệu quả điều trị. Thế hệ máy chụp OCT mới ( OCT angiography) còn cho phép chụp ảnh toàn bộ hệ mạch võng mạc như chụp mạch ký huỳnh quang, qua đó giảm thiểu nguy cơ phản ứng với thuốc chụp, hình ảnh thu được mang lại nhiều giá trị cho việc chẩn đoán.
Điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường
Điều trị bệnh VMDTD là điều trị cá thể hóa và dựa vào tình trạng nặng của từng bệnh nhân.. Mục đích đầu tiên của điều tri là làm chậm quá trình tiến triển, và nếu tình trạng toàn thân được kiểm soát tốt, thì tiến triển có thể dừng lại.
Bệnh VMDTD không tăng sinh
Nếu người bệnh được chẩn đoán bệnh VMDTD không tăng sinh, việc thăm khám mắt định kỳ là rất quan trọng ( khoảng 6 tháng / lần) để theo dõi tiến triển cũng như can thiệp kịp thời.
Bên cạnh chuyên khoa mắt, người bệnh cũng được khuyến khích kiểm tra chuyên khoa Nội tiết đái tháo đường , việc kiểm soát tốt đường huyết ở giai đoạn này có thể làm ngừng tiến triển bệnh.
Bệnh VMDTD tăng sinh
Nếu bệnh lý VMDTD tiến triển sang các giai đoạn nặng hơn, việc điều trị phải được đưa ra nhanh chóng. Sau đây là một vài liệu pháp điều trị :
- Laser quang đông võng mạc – Sử dụng tia laser đốt tạo sẹo đông đặc vùng võng mạc rò dịch , đây là phương pháp điều trị làm ngừng hoặc chậm lại quá trình rò dịch và máu trong mắt, được thực hiện tại phòng khám và 1 – 2 buổi tùy theo sự thích ứng của người bệnh. Tuy nhiên, điều trị bằng laser không làm tăng thị lực ( do vùng võng mạc đã bị tiêu hủy do nhiệt) , mà chỉ giúp điều chỉnh tình trạng hiện tại và phòng ngừa tiến triển xấu. Ngoài ra người bệnh có thể mất thị trường chu biên hoặc giảm thị lực buổi tối.
- Cắt dịch kính – là một phẫu thuật can thiệp vào trong nhãn cầu, loại bỏ dịch kính bị xuất huyết và mô xơ trên võng mạc.
Các điều trị khác
Bên cạnh phẫu thuật, người bệnh có thể được sử dụng thuốc ức chế tăng sinh tân mạch ( anti-VEGF) qua đường tiêm nội nhãn. Dược chất này có tác dụng làm ngừng sự phát triển của các mạch máu bất thường. Điều trị tiêm nội nhãn các thuốc ức chế tăng sinh tân mạch hiện nay được coi là một phương pháp điều trị tiêu chuẩn, thường quy và có thể kết hợp với laser
Tất cả các phương pháp điều trị trên chỉ có tác dụng làm chậm quá trình tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường, nếu tình trạng đường huyết của bệnh nhân không được kiểm soát tốt, bệnh nhân vẫn có nguy cơ mất thị lực.vĩnh viễn.